Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Nâm Nung thuộc địa giới hành chính của 07 xã là Nâm Nung, Nâm N’Đir, Đức Xuyên (huyện Krông Nô), xã Quảng Sơn (huyện Đăk Glong) và các xã Đăk Hòa, Đăk Mol, Nâm N’Jang (huyện Đăk Song), với tổng diên tích tự nhiên là 21.865,87ha. Phần lớn diện tích là rừng nguyên sinh. Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Nâm Nung có các đặc trưng đa dạng sinh học sau:
Đa dạng hệ sinh thái
KBTTN Nâm Nung có 02 hệ sinh thái chủ yếu là HST rừng gỗ tự nhiên lá rộng thường xanh và HST rừng gỗ hôn giao tre nứa tự nhiên. Trong đó diện tích HST rừng gỗ tự nhiên lá rộng thường xanh chiếm diện tích lớn , chiếm tới >90% diện tích toàn bộ KBTTN.
Đa dạng hệ thực vật
Trên cơ sở các nghiên cứu trước đây cho thẩy trong khu vực có hệ động vật rất phong phú và đa dạng. Thực vật có 881 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 541 chi của 175 họ thực vật. Trong đó có 75 loài quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới như Cẩm lai, Gõ đỏ, Gõ mật, Sao đen, Dầu mít, Sến mủ, Sao lá cong, Sồi ba cạnh, Dầu nước… Trên thế giới, Sồi ba cạnh chỉ mới phát hiện được ở Indonesia, Malaysia và Việt Nam. CVĐC Đak Nông là một trong 3 địa điểm của Tây Nguyên, Việt Nam phát hiện Sồi ba cạnh. Thảm thực vật ở đây là nơi nuôi dưỡng hệ động vật, được chia theo công dụng: Nhóm loài cây lấy gỗ có 334 loài, chiếm 39,1%; nhóm làm thuốc có 333 loài, chiếm 40,8%; nhóm cây ăn được cho người và động vật có 192 loài, trong đó 51 loài cho quả, 14 loài cho củ và hạt, 70 loài cho lá, 37 loài làm thức ăn chăn nuôi, 20 loài nấu nước uống.
Đa dạng hệ động vật
- Khu hệ thú: ghi nhận có 58 loài thú, gồm: chuột có số lượng lớn nhất (8 loài, chiếm 10,96% tổng số loài ghi nhận được), tiếp đến là sóc cây có 07 loài chiếm 9,59% tổng số loài ghi nhận được. Có 5 họ chỉ có duy nhất 01 loài, chiếm 1,37% đó là dơi quả, tê tê, lợn, cheo cheo, voi. Đặc biệt trong đó có tới 24/58 loài thú có tên trong Sách đỏ, đang có nguy cơ bị tuyệt chủng cần được bảo tồn nguồn gen như voi, bò tót, chà vá chân đen, vượn đen, cầy mực, bò rừng…
- Khu hệ chim: Theo ghi nhận của Đồng Thanh Hải và nnk, 2011 tại đây ghi nhận 173 loài chim thuộc 15 bộ, 47 họ trong đó có 13 loài chim quý hiếm, đặc biệt có Hồng hoàng – loài chim rừng có kích thước lớn, hiện đang bị suy giảm nghiêm trọng do săn bắt và mất sinh cảnh sống.
- Khu hệ cá: Ghi nhận được tại khu vực có 66 loài thuộc 18 họ và 09 bộ cá tại khu vực nghiên cứu. Trong đó có 06 loài nằm trong danh sách đó của IUCN 2016, 05 loài xếp bậc NT (sắp bị đe dọa), 01 loài xếp bậc EN (nguy cấp) và 01 loài xếp bậc VU (sẽ nguy cấp)
- Khu hệ Bò sát, ếch nhái: ghi nhận được 37 loài trong đó có một số loài có giá trị bảo tồn như: Tắc kè Gekko gecko, Kỳ đà hoa Varanus salvator, Rắn sọc dưa Coelognathus radiates, rắn cạp nong, rắn hổ mang, rắn hổ chúa…
- Côn trùng: ghi nhận 03 loài côn trùng có tên trong Sách đỏ Việt Nam năm 2007 bao gồm bọ hung ba sừng, Cua bay đen, Cà cuống..
